Vào ngày 16/9/1992 – được ghi dấu là "Ngày Thứ Tư Đen Tối" (Black Wednesday) – một sự kiện chấn động đã xảy ra trên thị trường tài chính toàn cầu: George Soros, nhà quản lý quỹ đầu cơ người Mỹ gốc Hungary, đã buộc Anh quốc phải rút đồng bảng ra khỏi Cơ chế Tỷ giá Hối đoái Châu Âu (ERM) và kiếm được hơn 1 tỷ USD lợi nhuận chỉ trong một thời gian ngắn.
Vụ bán khống bảng Anh này không chỉ là thương vụ nổi tiếng nhất trong sự nghiệp của Soros mà còn là một bài học kinh điển về đầu tư vĩ mô, tâm lý thị trường và sự dũng cảm trước rủi ro.
ERM là gì ?
Cơ chế tỷ giá hối đoái châu Âu, hay ERM, là một hệ thống tiền tệ được thành lập vào năm 1979 nhằm ổn định tỷ giá hối đoái của các loại tiền tệ châu Âu và chuẩn bị cho việc áp dụng đồng tiền chung, đồng Euro
ERM cố định tỷ giá hối đoái của các loại tiền tệ tham gia vào đồng Mark Đức , là loại tiền tệ mạnh nhất và ổn định nhất ở châu Âu vào thời điểm đó. ERM cho phép một số biến động trong một phạm vi nhất định, nhưng nếu một loại tiền tệ đạt đến giới hạn trên hoặc dưới của nó, ngân hàng trung ương của quốc gia đó phải can thiệp vào thị trường để giữ nó trong phạm vi.
Bối cảnh: Anh quốc và cái bẫy của tỷ giá cố định
Lúc mới thành lập, Anh từ chối tham gia Cơ chế tỷ giá hối đoái châu Âu (ERM)
Năm 1979, tiền thân của đồng tiền chung châu Âu, Cơ chế tỷ giá hối đoái châu Âu (ERM) được thành lập, cho phép các đồng tiền tệ tham gia vào cơ chế này được neo tỷ giá hối đoái của họ vào một mức nhất định, cụ thể là không đồng tiền quốc gia nào được phép tăng giá hay mất giá quá 2.25% với các đồng tiền quốc gia khác.
Thực tế, các quốc gia chưa sẵn sàng từ bỏ đồng nội tệ nhưng vẫn đồng ý giữ tỷ giá hối đoái tại một mức nhất định thay vì thả nổi và để thị trường vốn thiết lập tỷ giá. Tuy nhiên, nước Anh lại từ chối tham gia ERM ngay từ khi nó bắt đầu.
Năm 1990, Anh quyết định tham gia vào ERM do lạm phát đã tăng quá cao
Tháng 10/1990, Anh quyết định tham gia vào ERM. Nguyên nhân là do lạm phát đã tăng quá cao, từ mức 3% vào năm 1988 lên tới 10.9% vào năm 1990. Để chống lại tình trạng lạm phát nghiêm trọng này, Anh buộc phải gia nhập vào cơ chế ERM với hy vọng ổn định kinh tế.
Sau khi gia nhập, Anh đã neo giá GBP với đồng Mác Đức (DEM), với hy vọng định vị nền kinh tế của Anh bên cạnh Đức – quốc gia có nền kinh tế mạnh nhất châu Âu lúc đó. Giá trị GBP khi đó được đặt ở mức 2.95 Mác Đức và giao động với biên độ thay đổi không quá 6%.
Sau khi Đức thống nhất năm 1989, chi tiêu của chính phủ đã tăng mạnh, buộc Ngân hàng Trung ương Đức phải in thêm tiền. Điều này dẫn đến lạm phát cao và khiến Ngân hàng Trung ương Đức không có nhiều lựa chọn ngoài việc tăng lãi suất.
Tuy nhiên, việc tăng lãi suất đi kèm với sức ép tăng giá lên đồng Mác Đức. Điều này buộc các ngân hàng trung ương khác phải tăng lãi suất để duy trì tỷ giá hối đoái cố định của họ. Thời điểm đó, đồng tiền của các quốc gia châu Âu (trong đó có GBP) đều lên giá so với các đồng tiền bên ngoài như USD hay JPY.
Đặc thù của Anh lúc bấy giờ là nước này có thâm hụt tài khoản vãng lai nghiêm trọng. GBP càng lên giá càng khiến xuất khẩu của Anh sụt giảm và nhập khẩu tăng, khiến cán cân vãng lai thêm mất cân bằng. Thời điểm đó, lãi suất của Anh đã được điều chỉnh tăng thêm tới 15% làm cho lạm phát ở Anh ngày càng tăng, cao gấp 3 lần ở Đức.
Nước Anh lúc này trải qua giai đoạn tăng trưởng kinh tế không bền vững, có nghĩa là có thể sẽ sớm bước vào thời kỳ suy thoái. Nhận thấy rằng nền kinh tế yếu kém của Anh và tỷ lệ thất nghiệp cao sẽ không cho phép chính phủ Anh duy trì chính sách tăng lãi suất này lâu dài, nhà đầu tư George Soros đã nhảy vào hành động.
Sau khi gia nhập ERM, lạm phát ở Anh vẫn tiếp tục tăng
Sau khi Đức thống nhất năm 1989, chi tiêu của chính phủ đã tăng mạnh, buộc Ngân hàng Trung ương Đức phải in thêm tiền. Điều này dẫn đến lạm phát cao và khiến Ngân hàng Trung ương Đức không có nhiều lựa chọn ngoài việc tăng lãi suất.
Tuy nhiên, việc tăng lãi suất đi kèm với sức ép tăng giá lên đồng Mác Đức. Điều này buộc các ngân hàng trung ương khác phải tăng lãi suất để duy trì tỷ giá hối đoái cố định của họ. Thời điểm đó, đồng tiền của các quốc gia châu Âu (trong đó có GBP) đều lên giá so với các đồng tiền bên ngoài như USD hay JPY.
Đặc thù của Anh lúc bấy giờ là nước này có thâm hụt tài khoản vãng lai nghiêm trọng. GBP càng lên giá càng khiến xuất khẩu của Anh sụt giảm và nhập khẩu tăng, khiến cán cân vãng lai thêm mất cân bằng. Thời điểm đó, lãi suất của Anh đã được điều chỉnh tăng thêm tới 15% làm cho lạm phát ở Anh ngày càng tăng, cao gấp 3 lần ở Đức.
Nước Anh lúc này trải qua giai đoạn tăng trưởng kinh tế không bền vững, có nghĩa là có thể sẽ sớm bước vào thời kỳ suy thoái. Nhận thấy rằng nền kinh tế yếu kém của Anh và tỷ lệ thất nghiệp cao sẽ không cho phép chính phủ Anh duy trì chính sách tăng lãi suất này lâu dài, nhà đầu tư George Soros đã nhảy vào hành động.
Soros nhận ra điều gì?
Vào năm 1992, George Soros nhận ra rằng đồng bảng Anh đang bị định giá quá cao khi nước Anh cố gắng duy trì tỷ giá hối đoái cố định theo cơ chế ERM, trong khi nền kinh tế nội tại yếu kém, lãi suất cao và áp lực lạm phát lớn. Ông hiểu rằng chính phủ Anh đang ở vào thế “kẹt”: nếu giữ tỷ giá, họ phải tăng lãi suất, khiến suy thoái thêm trầm trọng; còn nếu hạ lãi suất để cứu kinh tế thì sẽ phá vỡ cam kết với ERM. Soros tin rằng không chính phủ nào có thể chống lại thực tế thị trường khi nền tảng kinh tế không ủng hộ. Với nhận định rằng đồng bảng không thể trụ vững, ông đặt cược lớn bằng cách bán khống và đã thu lời khoảng 1 tỷ USD sau khi Anh buộc phải rút khỏi ERM. Chính điều này đã khiến ông được mệnh danh là “người phá vỡ Ngân hàng Anh”.
Kế hoạch “đánh sập” đồng bảng
Kể từ tháng 8, Soros và quỹ Quantum đã mở vị thế bán khống
Trong suốt mùa hè năm 1992, đồng bảng Anh vẫn giữ vị trí của mình. Chỉ đến khi Đức bán đứng Anh thì mọi chuyện mới trở nên tồi tệ. Các quan chức ngân hàng trung ương Đức đã đưa ra rất nhiều bình luận bất lợi có thể gây suy yếu cho GBP.
Nắm được tình hình bấy giờ, từ tháng 8/1992, Soros và quỹ Quantum đã mở một vị thế 1.5 tỷ USD bán khống vì tin rằng giá của đồng Bảng Anh sẽ giảm.
Bản thân chính phủ Anh lúc đó vẫn hoàn toàn tin tưởng và tuyên bố rằng GBP sẽ không thể sụp đổ. Nhằm giữ cho đồng bảng ổn định, Anh đã chi hàng tỷ USD để mua lại GBP, đồng thời liên tiếp tăng lãi suất để thu hút các nhà giao dịch và ngăn chặn việc bán khống GBP.
Tuy nhiên, tất cả những biện pháp trên dường như không hiệu quả, khi nhiều nhà đầu tư không hề tin tưởng vào các chính sách tiền tệ của Anh, họ vẫn liên tiếp bán tháo đồng Bảng khiến cho nó giảm giá mạnh.
Ngày 16/9, quỹ Quantum của Soros đã ồ ạt bán khống đồng bảng Anh
Vào ngày 15/9/1992, chủ tịch của Bundesbank, ông Helmut Schlesinger đã phát biểu trong cuộc phỏng vấn với tờ Wall Street Journal và một tờ báo khác của Đức, rằng ERM cần được tái tổ chức lại, và ông cho rằng GBP đang quá mạnh so với DEM.
Sau cuộc phỏng vấn của Schlesinger, chính phủ Anh biết rằng nếu đồng GBP không bị phá giá, nó nhiều khả năng sẽ vẫn duy trì được trên mức thấp nhất trong biên độ 6%. Nhưng một khi tụt mất khỏi biên độ đó, nó sẽ giảm cực kỳ mạnh. Vì thế chính phủ đã chi hàng tỷ USD để mua lại lượng lớn GBP, với hy vọng nâng được giá trị v giữ trong và giữ trong biên độ an toàn.
Cũng chính vào ngày 15 tháng 9, Soros đã tiến hành bán khống một cách ồ ạt GBP, nâng vị thế mà quỹ Quantum vượt quá 10 tỷ USD, điều này đã khiến cho nhiều quỹ phòng hộ khác cũng bắt chước, bắt đầu bán tháo GBP. Với khối lượng khổng lồ bị bán khống, đồng bảng Anh giảm giá một cách nhanh chóng.
Ngày 16 tháng 9, sau khi thị trường chứng khoán mở cửa, Ngân hàng Anh bắt đầu mua vào đồng bảng Anh với nỗ lực ngăn chặn đà giảm giá mạnh. Nhưng mỗi khi GBP tăng lên một chút, Soros lại tiếp tục bán tháo và khiến nó giảm sâu hơn nữa. Ngân hàng Anh đã can thiệp hai lần trước 8h30 sáng, mỗi lần đều mua vào với số lượng lớn nhưng đều không có tác dụng.
Cuộc đấu tranh tiếp tục kéo dài suốt buổi sáng, đến khi ngân hàng Anh Không thể mua đủ số lượng bảng Anh để kéo đồng bảng lên. Điều này buộc Anh phải tăng lãi suất để thu hút các nhà đầu tư mua vào, từ 10% lên 12% rồi 15% nhưng cũng không ngăn cản được đồng bảng Anh lao dốc.
Đến khi giá trị của đồng bảng Anh giảm thêm 9.5%, chính phủ Anh sau đó đã bất lực và chính thức tuyên bố rút lui khỏi ERM cuối ngày 16 tháng 9. Kết thúc phi vụ, Soros kiếm được lợi nhuận khoảng hơn 1 tỷ USD, trong khi đó, nước Anh chịu thiệt hại hơn 3,3 tỷ bảng Anh.
Sự kiện “Thứ Tư Đen” năm 1992 không chỉ là một chiến thắng tài chính vang dội của George Soros mà còn là bài học kinh điển về sức mạnh của thị trường so với chính sách can thiệp hành chính. Soros đã chứng minh rằng khi một đồng tiền bị định giá sai lệch so với thực tế kinh tế, thì ngay cả ngân hàng trung ương cũng khó có thể bảo vệ nó nếu không thay đổi chính sách phù hợp. Cú đánh vào đồng bảng Anh cho thấy tầm quan trọng của việc nhận định đúng xu hướng vĩ mô, và là minh chứng cho khả năng của giới đầu cơ khi biết tận dụng điểm yếu trong hệ thống tài chính toàn cầu.
Mua bán USDT dễ dàng và an toàn tại sàn giao dịch Aliniex Môi trường giao dịch đáng tin cậy và hiệu quả. Theo dõi các tin tức mới nhất tại :
|